“Không cấm nhưng cần hạn chế xe máy bằng “công cụ” kinh tế”
Dân trí Xe máy được cho là nguồn nguy hiểm cao độ khi tham gia giao thông, nhưng người sử dụng xe máy đang gia tăng. Theo các chuyên gia, cần có biện pháp kinh tế để hạn chế dần xe máy chứ không nên áp dụng biện pháp hành chính cứng nhắc để cấm hay loại bỏ xe máy.
Áp lực giao thông tại các thành phố lớn vẫn luôn là vấn đề
đau đầu khi các giải pháp hạ tầng và phương tiện công cộng đã nhiều lần “lỗi hẹn”.
Với xe máy, bằng chứng của việc gia tăng
là con số vài triệu đăng ký mới mỗi năm. Để phân tích về những tác động xã hội
có liên quan, PV Dân trí đã có cuộc
trao đổi với Tiến sĩ Trần Hữu Minh -
Chuyên gia đánh giá tác động giao thông vận tải, Trường ĐH Giao thông Vận tải
(GTVT).
Xe máy được cho là nguồn nguy hiểm
cao độ khi tham gia giao thông, số vụ tai nạn giao thông liên quan đến xe
máy chiếm tỷ lệ cao so với các phương tiện khác. Tuy nhiên, xe máy
lại là phương tiện mưu sinh chủ yếu của nhiều thành phần lao động.
Vậy theo ông có nên hạn chế xe máy?
Nên
kiểm soát sử dụng xe máy với các công cụ phù hợp, đặc biệt là công cụ kinh tế
qua đó tác động đến quyết định đi lại của người dân đối với xe máy.
Mặc
dù có nhiều ưu điểm xe máy cũng có rất nhiều nhược điểm, đặc biệt về an toàn
(do kết cấu) và tiện nghi (người sử dụng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết
nắng nóng, mưa, bụi...) bởi vậy chưa bao giờ xe máy được coi là một phương tiện
đi lại chủ yếu tại các nước phát triển. Chúng ta đi xe máy nhiều vì điều kiện
kinh tế và hạ tầng chưa cho phép.
Một xã hội phần lớn đi xe máy thì chưa thể coi là thịnh vượng
Về
mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, người dân sẽ tự
chuyển sang các phương thức vận tải an toàn hiệu quả hơn như đường sắt, vận tải
công cộng, ô tô cá nhân, vận tải phi cơ giới. Xu hướng này đã diễn ra trên
khắp thế giới. Nếu có tác động về chính sách, quá trình này sẽ diễn ra nhanh
hơn.
Chiến
lược hợp lý theo tôi là cung cấp cho người dân những phương thức đi lại tốt hơn
xe máy, đồng thời tạo ra những bất lợi nhất định cho những chuyến đi xe máy, khi
đó người dân sẽ cân nhắc, chủ động giảm nhu cầu sở hữu và sử dụng xe máy.
Hạn chế xe máy phụ thuộc vào
những yếu tố nào, có thể tính trong ngắn hạn hoặc trung hạn không
thưa ông? Theo ông, có nên áp dụng các biện pháp hành chính để hạn
chế xe máy?
Hạn
chế theo nghĩa cứng nhắc hành chính (cấm, loại bỏ) thì không nên và cũng không
thể làm trên diện rộng được. Nhưng chắc chắn có nhiều giải pháp có thể áp dụng
được ngay để dần dần tác động đến đối tượng xe máy cá nhân theo hướng giảm dần
nhu cầu sử dụng phương tiện này.
Nhu
cầu đi lại của người dân luôn hiện hữu, nếu không được đáp ứng bằng một phương
thức này thì phải được thực hiện bằng một phương thức vận tải khác. Khi vận tải
hành khách công cộng chưa đủ năng lực và chất lượng để đáp ứng được những chuyến
đi thường xuyên của người dân thì rõ ràng quá trình tác động đến vận tải cá
nhân như xe máy phải được thực hiện theo một lộ trình phù hợp. Bởi vậy việc hạn
chế xe máy phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các phương thức vận tải
khác, đồng thời là quyết tâm về mặt chính trị, cũng như sự nhận thức và ủng hộ
của cộng đồng.
Trong
thời gian tới khi các dự án đường sắt đô thị tại nhiều thành phố lớn được đưa
vào vận hành, tôi cho đấy là lúc chúng ta có thể tăng tốc các giải pháp tác động
vào quá trình sử dụng xe máy của người dân, để hướng người dân tới việc sử dụng
vận tải công cộng cho những chuyến đi thường xuyên của họ.
Nhiều nước tiến bộ như Trung Quốc,
Singapore hoặc các nước có điều kiện giao thông tương đồng như Việt Nam
là Indonesia, Thái Lan... Họ đã thành công trong việc hạn chế xe máy.
Giải pháp và kinh nghiệm của họ là gì thưa ông?
Phần
lớn các quốc gia phát triển chuyển thẳng từ xe đạp, xe ngựa sang ô tô, vận tải
công cộng, đường sắt, mà bỏ qua xe máy. Một phần do điều kiện kinh tế cho phép,
một phần do điều kiện thời tiết khí hậu của họ khắc nghiệt hơn (không thể đi xe
máy vào mùa đông), ngoài ra quy hoạch sử dụng đất tạo nên những chuyến đi thuận
lợi cho ô tô, cự ly dài khá bất lợi cho xe máy.
Khi vận tải hành khách công cộng chưa đủ năng lực thì xe máy khó có thể hạn chế trong ngắn hạn (ảnh: Quang Phong)
Muốn
người dân chuyển sang vận tải công cộng, vận tải phi cơ giới, kinh nghiệm của các
nước là phải kết hợp cả 2 nhóm giải pháp: Thứ nhất, hỗ trợ và nâng cao công suất,
chất lượng hệ thống vận tải công cộng và phi cơ giới đảm bảo người dân có thể tiếp
cận, sử dụng vận tải hành khách công cộng một cách thuận tiện và hiệu quả cho
những chuyến đi thường xuyên. Thứ hai, tạo những khó khăn nhất định cho người sử
dụng xe máy, như phí đỗ xe, không gian đỗ xe... thiếu những giải pháp này, vận tải
hành khách công cộng sẽ không thể cạnh tranh được với xe máy, và người dân sẽ vẫn
tiếp tục gắn bó với xe máy do những ưu thế vừa nói ở phía trên.
Một
xã hội phần lớn đi xe máy thì chưa thể coi là thịnh vượng. Một xã hội chỉ có
toàn ô tô thì chắc chắc sẽ gặp rất nhiều vấn đề về ách tắc, ô nhiễm môi trường
và tai nạn giao thông. Vận tải công cộng và vận tải cá nhân không đối đầu, mà hỗ
trợ phối hợp chặt chẽ với nhau cùng phát triển. Đây là những kinh nghiệm mà Việt
Nam nên tham khảo và nhanh chóng áp dụng.
Với
điều kiện vận tải hành khách công cộng (tàu điện ngầm, xe buýt, xe buýt
nhanh...) đủ tốt để thu hút những người đi xe máy, việc hạn chế sử dụng xe máy
sẽ đem lại những lợi ích rất rõ ràng là nâng cao được an toàn, cải thiện trật tự
văn minh đô thị, cải thiện môi trường, giảm ùn tắc, thay đổi hình ảnh và sức cạnh
tranh của đô thị với những phương thức vận tải hiện đại hơn. Nếu việc hạn chế
xe máy lại dẫn đến việc gia tăng quá nhanh chóng nhu cầu
sử dụng xe con cá nhân, Việt Nam sẽ lại đi theo đúng vết xe đổ của Thái Lan,
Indonesia cách đây 15-20 năm, với ách tắc và ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Bởi
vậy, nếu không thông về nhận thức và quyết tâm về chính trị cùng các giải pháp
mạnh mẽ, sẽ rất khó để kiểm soát xe máy, vận tải hành khách công cộng sẽ chậm
phát triển, kèm theo đó là một loạt các hệ lụy về kinh tế - xã hội và môi trường.
Tôi
cho khó khăn về nhận thức là khó khăn lớn nhất. Nhận thức không những của nhà
quản lý, mà còn là những người trực tiếp thực thi và quan trọng là của cộng đồng
người dân. Hy vọng người dân sẽ ủng hộ cho cả những giải pháp phát triển vận tải
công cộng, lẫn giải pháp kiểm soát sử dụng vận tải cá nhân.