![]() |
|
Ông giáo già 20 năm dạy ôn thi ĐH miễn phí (02/01/2011)Trong khoảng 20 năm qua, ông giáo Lương Văn Trưng (thôn Đông, xã Hồng Việt (Đông Hưng, Thái Bình) đã dạy ôn thi miễn phí cho rất nhiều con em thương bệnh binh, nhà nghèo của Thái Bình đỗ đại học, cao đẳng.
Chẳng cần phải đến thôn Đông, xã Hồng Việt (Đông Hưng, Thái Bình), mà ở các xã gần đó, hỏi nhà ông giáo Lương Văn Trưng thì ai cũng biết. Không phải vì ông đạt danh hiệu nhà giáo nhân dân hay danh hiệu cao quý nào, mà vì trong khoảng 20 năm qua, ông đã dạy ôn thi miễn phí cho rất nhiều con em thương bệnh binh, nhà nghèo của tỉnh Thái Bình đỗ đại học, cao đẳng. Đặc biệt, ông có một kho sách với khoảng 4 vạn đầu sách. ![]() Ông giáo làng Lương Văn Trưng bên những hòm sách của mình.
Hết khóa học ấy, ngồi rỗi không chịu được, ông tập trung 5-6 học sinh là con cháu của các bậc lão thành cách mạng vốn là người quen của mình, ôn thi tốt nghiệp PTTH và thi đại học. Ông dạy cả toán, lý, hóa lẫn văn, sử, địa, tiếng Anh, tiếng Pháp, đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhưng mỗi năm, ông cũng chỉ nhận dạy 5 - 6 học sinh, mà phải là học sinh có sức học khá, chăm ngoan, con em thương binh, liệt sĩ hoặc con nhà nghèo, vì “Lớp đông quá thì sức tôi không kham nổi”, ông nói. Ông thường bảo học trò, nếu chỗ nào không hiểu cứ nói để ông giảng lại. Lớp học đặt tại trường PTTH Tiên Hưng (huyện Đông Hưng). Mỗi năm cũng chỉ vài tháng giáp kỳ thi, ông - trò mới ôn luyện. Hầu hết những học sinh học lớp ôn thi của ông đều đỗ đạt cao. Ông thường căn dặn học trò là ông con sống với nhau chân thật, nhớ đến nhau là được, đừng quà cáp. Một lần có phụ huynh biếu mâm vải thiều, ông cũng không nhận. “Cuộc sống đến thế là đủ rồi. Tôi có chế độ về hưu mất sức của mình”. Gọi là có chế độ, chứ do vì về hưu mất sức năm 1980 nên chỉ có sổ gạo chứ không có lương, sau đó mới được 45.000 đồng/tháng rồi tăng lên 50.000 đồng, hiện tại cũng chỉ được hơn 300 nghìn đồng/tháng. “May mắn là tôi có người vợ rất tốt, bà ấy không hề kêu ca gì”, ông nói.
Lúc mới về hưu, con cái nheo nhóc, ông phải xuống ao lấy bùn thuê nuôi gia đình. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, các con ông cũng không theo học lên cao, người đi bộ đội, người đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Điện Biên, Lai Châu, cuộc sống rất vất vả. Dù đã được nghe kể trước, nhưng đến nhà ông, chúng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên bởi căn nhà ba gian quá bé nhỏ, nếu không nói là tuềnh toàng. Ngoài bộ bàn ghế đivăng cũ kỹ, chiếc tivi từ đời “cổ lai hy”, thì chẳng có gì đáng giá. Ngay như chiếc tivi ấy cũng là đồ cũ của người quen mà con gái ở Điện Biên xin về biếu bố mẹ. “Trước mình khổ lắm, nhưng nhờ các thầy giáo tốt nên mình mới được ăn học đến nơi đến chốn, nên chẳng có lý do gì khi học sinh nghèo, ham học mà mình lại không giúp đỡ. Tài sản lớn nhất đời tôi là tình cảm của các thế hệ học trò” - ông giáo già từng được Giáo sư Hoàng Như Mai gọi là “học sinh yêu” bảo vậy. Đến nay, ông cũng không thể nhớ nổi mình có bao nhiêu học trò, vì mấy chục năm cần mẫn đưa đò, vị học trò lớn tuổi nhất của ông là nhà thơ Trần Đình Động cũng trên 75 tuổi, lớn hơn cả thầy. Chỉ tính đến năm 2004, có 86 học sinh con em thương bệnh binh, lão thành cách mạng, con nhà nghèo đã bước vào giảng đường đại học, cao đẳng từ lớp ôn thi của ông giáo làng Lương Văn Trưng, trong đó có em Điền đạt điểm cao nhất kỳ thi tốt nghiệp PTTH tỉnh Thái Bình năm 2002, em Bảo (xã Thăng Long, huyện Đông Hưng) đỗ thủ khoa Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội năm 2003. Mới 14 tuổi, nhưng ông phải khai tăng lên 2 tuổi để đủ tuổi thi Certificat (theo quy định 16 tuổi mới được thi Certificat) và đỗ bằng Diplôme khi 16 tuổi. Công trình khoa học “Đời sống cây trồng” của ông được Hội đồng khoa học duyệt sau 8 ngày và đã được thực nghiệm tại Thái Bình. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tới phương pháp truyền đạt tới người nông dân, vì nếu dập khuôn kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước vào Việt Nam thì không phù hợp với trình độ dân trí của người nông dân Việt Nam vốn còn thấp. Đơn giản như việc hòa nước tiểu với phân lân, đạm để tưới cây - vốn là một quá trình phản ứng hóa học với ngôn ngữ chuyên ngành và đó cũng là việc mà nông dân miền Bắc thời đó quen làm, nhưng ông lại giảng giải cụ thể cho họ bằng ngôn ngữ của chính họ. Lúc đầu ông tưởng anh ta cần giúp đỡ việc gì đó. Nhưng không phải vậy. Anh này chỉ vì muốn được gặp trực tiếp ông để nhìn cho rõ. Anh ta nhìn ông từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, rồi bảo: Người ta đồn cụ tên là “Lanxa”, hay xuất hiện trên báo cùng mấy ông Tây to cao, nhưng tôi không tin, hôm nay mới được trực tiếp. Quả thật, họ nói chẳng sai. Hiện nay, tủ sách của ông có hơn 4 vạn cuốn sách, trong đó có nhiều cuốn sách hiếm như bộ “Những người khốn khổ” bằng tiếng Pháp. Toàn bộ số sách ấy được ông lưu giữ trong 72 hòm tôn để tại một khu nhà riêng và cả cạnh giường nằm... Ai cần sách, ông đều cho mượn: “Chỉ mong mọi người giữ gìn cẩn thận, để khi người khác cần thì có sách cho họ mượn, vì đó cũng không phải sách của tôi mà của học trò nhiều thế hệ gửi tôi. Tôi chỉ giữ hộ cho thôi - ông nói. “Hiện nay nhiều sách ngữ pháp quá, người học và người dạy đều khổ, nên tôi tổng hợp lại có hệ thống, trình độ nào cũng có thể hiểu được. Tôi lo nhất là mình yếu thôi. Nhiều người bảo tôi, ông cứ hoàn thành đi, sẽ in cho ông”, ông tâm sự. |
|
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG |